Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thuộc thị trường Châu Á-Thái Bình Dương, trong những năm gần đây đã có nhiều triển vọng, phát triển tốt đẹp; Được đánh giá là một thị trường rộng lớn, có vai trò quan trọng đối với xuất nhập khẩu của Việt Nam, thị trường Châu Á – Thái Bình Dương chiếm tỷ trọng 66% đến 70% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của nước ta. Đặc biệt, khối thị trường khu vực Đông Bắc Á (bao gồm các nước: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên và Mông Cổ). Nhờ đó, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đối với thị trường Châu Á-Thái Bình Dương nói chung và khối thị trường Đông Bắc Á nói riêng đã có nhiều sự thay đổi lớn, chuyển dịch rất khả quan về thị trường và cán cân thương mại.
Quyền, nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở các nước Đông Nam Á theo hợp đồng như thế nào?
Căn cứ tại Điều 6 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020 quy định về quyền và nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở các nước Đông Nam Á theo hợp đồng gồm có như sau:
- Được cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của Việt Nam về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; chính sách, pháp luật và phong tục, tập quán của nước tiếp nhận lao động có liên quan đến người lao động; quyền, nghĩa vụ của các bên khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Được tư vấn, hỗ trợ để thực hiện quyền, nghĩa vụ và hưởng lợi ích trong hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo nghề;
- Hưởng tiền lương, tiền công, chế độ khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn lao động và quyền lợi, chế độ khác theo hợp đồng lao động; chuyển về nước tiền lương, tiền công, thu nhập, tài sản hợp pháp khác của cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động;
- Được bảo hộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng trong thời gian làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận lao động, pháp luật và thông lệ quốc tế;
- Đơn phương chấm dứt hợp đồng khi bị người sử dụng lao động ngược đãi, cưỡng bức lao động hoặc có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe hoặc bị quấy rối tình dục trong thời gian làm việc ở nước ngoài;
- Hưởng chính sách hỗ trợ về lao động, việc làm và quyền lợi từ Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước theo quy định của pháp luật;
- Không phải đóng bảo hiểm xã hội hoặc thuế thu nhập cá nhân hai lần ở Việt Nam và ở nước tiếp nhận lao động nếu Việt Nam và nước đó đã ký hiệp định về bảo hiểm xã hội hoặc hiệp định tránh đánh thuế hai lần;
- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Được tư vấn và hỗ trợ tạo việc làm, khởi nghiệp sau khi về nước và tiếp cận dịch vụ tư vấn tâm lý xã hội tự nguyện.
- Tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động;
- Giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam; tôn trọng phong tục, tập quán của nước tiếp nhận lao động; đoàn kết với người lao động tại nước tiếp nhận lao động;
- Hoàn thành khóa học giáo dục định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài;
- Nộp tiền dịch vụ, thực hiện ký quỹ theo quy định của Luật này;
- Làm việc đúng nơi quy định; chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động; tuân thủ sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động ở nước ngoài theo hợp đồng lao động;
- Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã ký theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động;
- Về nước đúng thời hạn sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo nghề; thông báo với cơ quan đăng ký cư trú nơi trước khi đi làm việc ở nước ngoài hoặc nơi ở mới sau khi về nước theo quy định của Luật Cư trú trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhập cảnh;
- Nộp thuế, tham gia bảo hiểm xã hội, hình thức bảo hiểm khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động;
- Đóng góp vào Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Phí Vĩnh Tường, Quyền Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị thế giới nhấn mạnh hội thảo là diễn đàn cho các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý trao đổi và học tập, chia sẻ kết quả nghiên cứu về vấn đề cạnh tranh nước lớn khu vực Đông Á, qua đó nhận diện tình hình, dự báo triển vọng và gợi ý chính sách cho Việt Nam.
Trong báo cáo “Nhận diện kiến trúc an ninh Đông Á trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung tới 2030”, TS. Nguyễn Đình Luân - Nguyên Thư ký HĐKH, Bộ Ngoại giao cho rằng cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung tới 2030 tiếp tục căng thẳng, làm cho các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống ở khu vực Đông Á thêm phức tạp và kịch tính. Bên cạnh đó, việc cạnh tranh giữa hai cường quốc này ở khu vực đang làm suy giảm vai trò của các cơ chế an ninh hợp tác đa phương cũng như vị thế trung tâm của ASEAN. Hệ quả là Đông Á tiếp tục bị bị đứt gãy lớn về địa - chính trị, an ninh, kinh tế và bị lâm vào trạng thái “hòa bình nóng” và “phát triển lạnh”
TS. Hoàng Thế Anh - Viện Kinh tế và Chính trị thế giới trong báo cáo “Cạnh tranh Trung - Mỹ ở Đông Á” cho rằng khu vực Đông Á là địa bàn trọng yếu trong cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự cạnh tranh này thể hiện thông qua biểu hiện ở việc Trung Quốc và Mỹ đưa ra các sáng kiến nhằm tập hợp lực lượng trên toàn cầu và khu vực; cạnh tranh về kinh tế an ninh, triển khai các hoạt động trên thực địa chủ yếu là biển Hoa Đông, Biển Đông và cạnh tranh về sức mạnh mềm.
TS. Phan Cao Nhật Anh – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và châu Phi đã đưa đến hội thảo tham luận “Cạnh tranh Mỹ - Trung và chiến lược của Hàn Quốc”. Theo đó, TS cho rằng Hàn Quốc tiếp tục xây dựng, duy trì mối quan hệ thuận lợi với cả hai cường quốc là Mỹ và Trung Quốc. An ninh và thịnh vượng kinh tế dựa vào quan hệ với Mỹ. Trung Quốc là đối tác kinh tế quan trọng, liên quan chặt chẽ đến Triều Tiên.
Trong báo cáo “Đông Á trong tính toán chiến lược của Nga hiện nay” của TS. Vũ Thuỵ Trang, Giám đốc Trung tâm N/C Nga và SNG - Viện Nghiên cứu Châu Âu đã đưa ra cách tiếp cận của Nga đốii với khu vực Đông Á trước và sau năm 2022. Sự thay đổi này do những lệnh trừng phạt của Mỹ nhắm vào Nga, khủng hoảng địa chính trị và cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung tác động đa chiều đến khu vực. Trong thời gian tới Nga hướng tới hợp tác đôi bên cùng có lợi với Trung Quốc, Triều tiên nhưng không hình thành liên minh.
TS. Phí Hồng Minh - Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á với tham luận “Chính sách của Nhật Bản đối với khu vực Đông Á trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn” cho rằng sự thay đổi môi trường an ninh khu vực và quốc tế đã tác động đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản với 3 văn bản quan trọng ban hành năm 2022 gồm: Chiến lược an ninh quốc gia, Chiến lược phòng thủ quốc gia và Chương trình xây dựng quốc phòng. Bên cạnh đó chính sách của Nhật Bản với Đông Á cũng có những thay đổi quan trọng, tiêu biểu Nhật Bản thay đổi từ ưu tiên kinh tế sang xem trọng vấn đề an ninh.
Vị trí, vai trò của Việt Nam trong Chính sách hành động hướng Đông của Ấn Độ trước thách thức từ Trung Quốc được PGS. TS. Trần Xuân Hiệp - Đại học Đông Á, TP. Đà Nẵng đề cập trong báo cáo “Vị trí, vai trò của Việt Nam trong chiến lược cạnh tranh Ấn Độ và Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á”. Theo đó, PGS. TS. Trần Xuân Hiệp cho rằng trong thời gian tới Việt Nam cần phải có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại linh hoạt nhằm thích ứng với bối cảnh quan hệ cạnh tranh Ấn Độ và Trung Quốc ngày càng phức tạp.
Phiên thảo luận cũng diễn ra sôi nổi với nhiều ý kiến đóng góp quan trọng, trong đó các ý kiến đều thống nhất rằng thế giới hiện đang đối diện với nhiều thách thức chưa từng có, những thách thức ấy gồm biến đổi khí hậu, cạnh trạnh giữa các nước lớn, xung đột địa chính trị, già hoá dân số, cạn kiệt tài nguyên môi trường. Trong thời gian tới cạnh tranh giữa các nước lớn vẫn rất căng thẳng và gay gắt. Dù vậy, trong thách thách thức cũng có các cơ hội cho sự phát triển về kinh tế của Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra câu hỏi Việt Nam nên ứng xử như thế nào trong quan hệ với các nước để vừa thu được lợi ích cho phát triển kinh tế và vừa đảm bảo được an ninh quốc gia.
Hội thảo đã đưa ra những ý kiến đa chiều về bức tranh tổng thể cạnh tranh các nước lớn ở khu vực Đông Á. Chính sách ứng phó của Việt Nam là trung lập về chính trị, an ninh và hợp tác về kinh tế và không chọn bên vẫn là biện pháp phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian tới chính sách Việt Nam có thay đổi hay không là phụ thuộc vào sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn. .
Cuối cùng, TS. Hoàng Thế Anh thay mặt Lãnh đạo đạo Viện Kinh tế và Chính trị thế giới gửi lời cảm ơn tới các chuyên gia, đại biểu đã dành thời gian tham dự và đưa ra những ý kiến đóng góp cho Hội thảo, đồng thời hy vọng rằng, trong thời gian tới, Viện kinh tế và Chính trị thế giới tiếp tục nhận được sự hợp tác của các chuyên gia và nhà khoa học.
Nguồn: Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
https://iwep.gov.vn/su-kien/hoi-thao-khoa-hoc-canh-tranh-nuoc-lon-o-khu-vuc-dong-a/